Thứ Tư, 21 tháng 8, 2013
Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2013
NÓI CHUYỆN CHUYÊN ĐỀ: NGHỆ THUẬT HẬU-ẤN TƯỢNG (POST-IMPRESSIONISM)
TỪ 3G ĐẾN 7G, CHỦ NHẬT, 18/8/2012
TẠI S.O.C STUDIO, 3A TÔN ĐỨC THẮNG, Q. 1, TP HCM.
TẠI S.O.C STUDIO, 3A TÔN ĐỨC THẮNG, Q. 1, TP HCM.
Cách nhìn, cách vẽ của các họa sĩ Ấn tượng nhanh chóng được lan rộng
trong thế giới hội họa, đến những nơi mà người ta bắt đầu chú ý đến đề
tài đương đại và tranh vẽ ngoài trời như Anh, Mỹ, Úc, Nhật Bản, v.v…
Nhưng bản than trường phái Ấn tượng thì không tồn tại lâu. Từ 1880, ngay
những người kiên trì với phong cách Ấn tượng như C. Monet, A. Renoir đã
có những điều chỉnh nhất định, còn lại, đa số đều rẽ lối đi tìm con
đường khác.
Sự tan rã của trường phái Ấn tượng có mầm mống
nội tại. Càng ngày, các họa sĩ càng nhận ra rằng nghệ thuật không chỉ
là sự thể hiện đơn thuần những cái nhìn thấy thoáng qua và tình cờ một
cách tự nhiên chủ nghĩa, những nguyên lý về chân lý khách quan của thiên
nhiên không thể hoàn toàn thay thế cho các ý nghĩa tượng trưng và sự
biểu đạt cảm xúc. Thời kỳ Hậu-Ấn tượng (Post-Impressionism) đã mở ra
nhiều xu hướng khác. Nổi trội lúc ấy, có các nhà Tân-Ấn tượng
(Neo-Impressionism) và các nhà Tượng trưng Chủ nghĩa (Symbolisme). Tuy
nhiên, trong cả hai, bốn người có ảnh hưởng lớn nhất đến nghệ thuật tạo
hình sau này là P. Cézanne, G. Seurat, V. Van Gogh, và P. Gauguin-bốn
con người “tử vì đạo”, và mỗi người, không chỉ mở ra một con đường.
Paul Cézanne (1839-1906) là người đầu tiên chia tay với
nhóm Ấn tượng (1877). Ông lặng lẽ đi tìm sự hòa giải những khám phá mới
mẻ từ các họa sĩ Ấn tượng với các chuẩn mực của nghệ thuật truyền
thống. Ông tiếp thu hội họa truyền thống ở tinh thần duy lý với các công
thức về sự cân bằng, vững vàng nhưng hướng đến sự khám phá cấu trúc
hình học (trừu tượng hóa) của thiên nhiên. Ông tiếp thu hội họa Ấn tượng
ở bảng màu lung linh ánh sáng, ở ý nghĩa kiến tạo không gian sự vật.
Tranh ông được xây dựng theo các nguyên tắc của sự hài hòa riêng biệt
khêu gợi tinh thần chứ không hấp dẫn mắt nhìn từ bên ngoài. Những hình
thể của thiên nhiên trong tác phẩm của ông như: “Tỉnh vật với quả táo”
(1878), “Núi non vùng Provenee” (1886) v.v… gần như được giản lược về
những hình khối cơ bản: hình trụ, hình cầu, hình nón. Chiều thứ ba được
tạo ra bằng biến thái sắc độ tinh tế, và để đạt đến sự hài hòa tổng thể,
ông sẵn sàng phá vỡ sự cân đối cục bộ của từng thành tố-bóp méo hay kéo
lệch hình. Các nguyên tắc “vẽ đúng” của chủ nghĩa Hàn lâm, với ông, xem
như bị hủy bỏ hoàn toàn. Đây là lý do khiến người ta xem ông là cha đẻ
của nghệ thuật hiện đại. Phong cách nghệ thuật của ông là một trong
những ảnh hưởng quan trọng đến trường phái lập thể (Cubism) sau này…
Georges Seurat (1859-1891) cũng quan tâm đến sự kiến
tạo một cấu trúc hội họa mới, nhưng ông bắt đầu bằng cách sử dụng phương
pháp hội họa của phái Ấn tượng. Từ các nghiên cứu lý thuyết về ảnh màu,
ông khoa học hóa các phát hiện bản năng của các họa sĩ Ấn tượng. Ông vẽ
bằng các chấm màu nguyên chất, nhỏ, đều với hy vọng khiến cho các màu
hòa trộn với nhau trong mắt người xem mà không làm mất độ mạnh và độ
sáng của chúng. Với lối vẽ này, ông được xem là người dẫn đầu trường
phái Tân-Ấn tượng. tác phẩm “Chiều chủ nhật trên đảo” (1884) của ông
được xem là một trong những ví dụ thuyết phục làm sống lại một cách mới
mẻ tính chất vững chắc về cấu trúc, hình họa, bố cục-những nhân tố cơ
bản mà trường phái Ấn tượng bỏ quên. Sự thú vị ông mang lại cho các họa
sĩ về sau chính là ở tính chất hình thức hóa rất cao với các hình thể
giản lược và sự hùng tráng có ý thức, cũng như sự quyến rũ của bảng màu…
Ngày nay, có lẽ, ai cũng đều biết đến cái tên Vincent Van Gogh (1853-1890).
Từ lâu, ông được xem là biểu tượng cao cả của khát vọng sống, của tinh
thần “tử vì đạo” nơi con người. Giá tranh của ông hiện nay đang đứng ở
vị trí đầu bảng trên thị trường nghệ thuật. “Hoa hướng dương”, “Hoa diên
vĩ” lên đến bốn, năm chục triệu đô la và phiên bản tranh ông có mặt ở
khắp mọi nơi…, nhưng đương thời, ông chỉ bán được một bức tranh với giá
rẻ mạt, không ai biết đến, nghèo khó, cùng quẫn với những cơn điên loạn…
Đến với hội họa muộn, tự học, vẽ như “cuồng” như “dại” nhưng hội họa
của ông có một tầm ảnh hưởng lớn lao không sao kể hết. Cũng tiếp thu chủ
nghĩa Ấn tượng, tranh khắc gỗ Nhật Bản, nhưng hội họa Van Gogh có tinh
thần khác hẳn. Ông có lẽ là họa sĩ ít tinh thần duy mỹ nhất. Hội họa của
ông nhắm đến sự lột tả các xung động nội tâm. Ông không quan tâm đến
cách “vẽ đúng”, không nhượng bộ các ấn tượng mắt thấy. ông dùng những
nét cọ riêng rẽ, mạnh mẽ, cuồn cuộn không chỉ để phá vỡ màu sắc, cấu
trúc tự nhiên của mọi hình thể mà còn để diễn tả nổi khích động riêng
tư. Nét bút, bảng màu của Van Gogh có giá trị tượng trưng và biểu hiện
phơi bày tâm trạng của ông. Không có một họa sĩ nào trước ông sử dụng
phương tiện này một cách vững vàng và hiệu quả đến thế. Con đường của
Van Gogh, dẫn đến chủ nghĩa Biểu hiện (Expressionism) sau này, ảnh hưởng
đến chủ nghĩa Dã thú (Fauvism) lẫn hội họa Trừu tượng ban sơ.
Người thứ tư, Paul Gauguin (1848-1903) cũng tự học,
cũng bắt đầu vẽ tương đối muộn, cũng có cuộc sống khác thường với tinh
thần “tử vì đạo” như Van Gogh, nhưng với một tâm thế, một ý thức khác
hẳn. Gauguin không quằn quại, “đau nhói” như Van Gogh, mà tỏ thái độ
khinh ghét và từ chối văn minh. Từ năm 1891, ông từ bỏ Châu Âu phù hoa
đến sống với thổ dân ở Tahiti-một trong những hòn đảo nhỏ ở Nam Thái
Bình Dương-và ở đây, ông đã tạo nên thế giới hội họa của riêng mình. Ông
vẽ người dân bản địa với các sinh hoạt phong tục, tín ngưỡng… của họ.
Tranh ông có chủ đề mới mẻ, lạ lùng. Không chỉ thế, ông còn như muốn vẽ
bằng cách nhìn của họ. Cách nhìn lúc ấy bị cho là “mọi rợ”-đơn giản hóa
hình thể trong đường nét dứt khoát, mạnh mẽ, và không ngại sử dụng các
màu chói thành mảng lớn, trái tự nhiên, nhằm đạt đến ý nghĩa biểu hiện
và tượng trưng. Ông được xem là một trong những người đầu tiên khai quật
những giá trị thẩm mỹ sống động của những dân tộc cổ xưa hay người
nguyên thủy, và phong cách của ông có ảnh hưởng lớn lao. Nhóm Nabis được
thành lập ở Paris là do dựa vào cảm hứng của ông. Ông là một trong
những nhân vật đứng đầu phong trào Tượng trưng, và là một trong những
ảnh hưởng chính của các khuynh hướng nghệ thuật phi tự nhiên của thế kỷ
20.
Nhìn chung, với sự "điên rồ” của mình, những
con người “tử vì đạo” nói trên đã làm một sự đoạn tuyệt dứt khoát với
truyền thống mấy trăm năm quá thiên về lối “vẽ đúng” và nương tựa vào
lối tư duy ý niệm để diễn dịch đề tài của hội họa Châu Âu, và từ đó, xác
lập các tiền đề của hội họa hiện đại-nền hội họa tự do diễn đạt cảm xúc
cũng như thực tại vật chất bằng tính cách tự trị của ngôn ngữ hội họa.
Từ đây, hội họa thoát ra khỏi cách tái tạo những câu chuyện kể để cho
hình, màu và kiến trúc cất lên tiếng nói của mình…
Nguyên Hưng
(2002)
ẢNH SỰ KIỆN:
Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013
NÓI CHUYỆN CHUYÊN ĐỀ: VỀ TRƯỜNG PHÁI ẤN TƯỢNG (IMPRESSIONISM)
CHIỀU CHỦ NHẬT, 11/8/2013, TỪ 15G30 ĐẾN 19G20
TẠI S.O.C STUDIO, 3A TÔN ĐỨC THẮNG, Q. 1, TPHCM.
ĐẠI CƯƠNG NỘI DUNG:
Nguyên Hưng
TẠI S.O.C STUDIO, 3A TÔN ĐỨC THẮNG, Q. 1, TPHCM.
ĐẠI CƯƠNG NỘI DUNG:
Trên thị trường mỹ thuật thế giới ngày nay, những bức tranh “Ấn tượng chủ nghĩa” chiếm vị trí nhất, nhì trên thang giá-mỗi bức tranh trung bình hàng chục triệu USD-và thực sự được công chúng rộng rãi yêu thích. Nhưng đương thời, vào những năm 60, 70, 80 của thế kỷ 19, người ta đã đón nhận chúng như những “quái thai”. Năm 1863, lần đầu tiên xuất hiện trong Triển lãm Quốc gia Pháp, tất cả các tranh “Ấn tượng” của các họa sĩ như C. Monet, E. Degas, C. Pissarro, A. Renoir… đều bị loại bỏ. Hơn 10 năm sau, năm 1874, khi đã thực sự “chín chắn”, lần đầu tiên ra mắt như một trào lưu, một trường phái nghệ thuật, các họa sĩ Ấn tượng vẫn tiếp tục bị tẩy chay. Phản ứng chung cho rằng đó là những bức tranh “lơ mơ”, “tầm thường”, “thiếu nghiêm túc”. Ngay cái tên “Ấn tượng chủ nghĩa” (Impressionism) cũng được gọi với hàm nghĩa chế giễu-do nhà báo Louis Leroy đặt từ tác phẩm “Ấn tượng mặt trời mọc” của C. Monet. Đa số các họa sĩ Ấn tượng đều sống chật vật, khốn khổ…
Tại sao?
Giản dị, bởi đó là một sự “phản bội”, một sự “xé rào” đối với các khuôn mẫu hội họa truyền thống do các nhà “Hàn lâm chủ nghĩa” nắm quyền cân đo; là một sự “xa lạ”, “lập dị” đối với tập quán cảm thụ nghệ thuật của tầng lớp trung lưu là công chúng nghệ thuật chủ yếu trong xã hội. Nghệ thuật tạo hình châu Âu từ thời đại Phục hưng cho đến lúc ấy, căn bản vẫn là nghệ thuật theo tinh thần Aristote đặt nặng cách nhìn đối chiếu với thiên nhiên, “bắt chước thiên nhiên" và chú trọng ý nghĩa thanh lọc của nghệ thuật. Với tinh thần này, vẽ là phải vẽ cái gì đáng vẽ-cảm thức về cái cao cả mang tính chất duy lý chi phối đề tài. Cả thời gian kéo dài mấy trăm năm, các họa sị chỉ loay hoay với các đề tài rút ra từ thần thoại, từ Kinh Thánh (Thiên Chúa giáo), từ lịch sử, sinh hoạt và chân dung của tầng lớp quý tộc v.v… Nói chung là toàn chuyện nghiêm trang, sang trọng. Vẽ những người lao động chân tay bình thường như G. Courbet (1819-1877)-người dẫn vào chủ nghĩa Hiện thực-đã bị cho là “dung tục”. Thêm nữa, vẽ là phải vẽ cho đúng-đúng với phép giải phẩu tạo hình, với luật phối cảnh, với màu sắc tự nhiên như mắt thường nhìn thấy; còn đẹp, là đẹp theo các tiêu chuẩn toán học của sự cân đối, hài hòa. Như J. D. Ingres (1780-1867) vẽ “Nàng cung phi” mới kéo dài lưng người mẫu ra chút xíu đã được chắc nhở: “Ê! Lưng thừa mất một đốt xương sống rồi!”(1), còn E. Delacroix (1718-1863) vẽ bức “Cuộc tàn sát ở Scio” với gam màu xanh lá đã bị các nhà phê bình la toáng, đại khái: “Màu gì kỳ cục, ma quái quá!”(2) v.v…
Các họa sĩ Ấn tượng đã “sai quấy” từ cách lựa chọn đề tài, cho đến cách vẽ. Người thì vẽ ao, vẽ hồ, vẽ nhà thờ, vẽ hoa súng (C. Monet); người thì chỉ vẽ vũ nữ trên sân khấu, sau sân khấu, thợ giặt, với các cô gái trước khi tắm, sau khi tắm (E. Degas); người thì chỉ vẽ các cô gái xinh đẹp với sinh hoạt của giới thợ thuyền (A. Renoir) v.v…-toàn những chuyện tầm thường, chẳng có tư tưởng, có triết lý cao siêu! Đã vậy, cách vẽ lại không “rõ ràng”, tranh nào tranh nấy cũng chỉ toàn những vệt màu ngắn, lấm tấm xen sít nhau; mọi đường viền bao quanh xác định đối tượng về mặt hình họa bị bỏ hẳn khiến cho sự vật với không khí như cứ hòa tan vào nhau; còn bong tối thì thay vì có màu xám hay đen thì lại dùng màu bổ tức của màu đối tượng khiến cho tranh cứ sáng lên “một cách giả tạo”. Thêm nữa, bố cục quá “tự nhiên chủ nghĩa”, gián đoạn, thiếu một trọng tâm chặt chẽ v.v…
Sự "sai quấy” đó, ngày nay, được xem là có ý nghĩa “cách mạng”. Đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng, chủ nghĩa Hiện đại trong nghệ thuật tạo hình phương Tây đã được bắt đầu từ các họa sĩ thuộc trường phái Ấn tượng. Nội dung của cuộc cách mạng này là đã nâng vị thế ‘con mắt” của nghệ sĩ lên cao hơn đề tài. Hội họa trở thành một quá trình chinh phục các ấn tượng thẩm mỹ về thế giới không chịu sự câu thúc của lối tư duy ý niệm với các khuôn mẫu duy lý. Đó là loại hội họa mà sau này, Picasso đã khái quát rất hay trong cách nói giản dị: “Ai cũng muốn hiểu hội họa. Tại sao người ta không cố hiểu tiếng chim hót? Tại sao người ta yêu đêm tối, đóa hoa, tất cả cái gì quanh con người mà không tìm hiểu chúng?”. Ngoài ra, bằng tác phẩm của mình, các họa sĩ Ấn tượng đã có một đóng góp quan trọng là đã khám phá tác dụng của ánh sáng trên thế giới đối tượng và những khả năng biểu cảm vô tận của màu sắc. Những bức tranh diễn tả sự lung linh của nắng trên mặt hồ gợn sóng của C. Monet, sự nhảy nhót của những đốm nắng xuyên qua vòm lá trên váy áo hay gương mặt thiếu nữ của A. Renoir, ánh đèn sân khấu hắt lên dáng hình uyển chuyển của các vũ nữ ba lê của E. Degas v.v… là những kiệt tác chứng minh cho đóng góp của họ.
Tất nhiên cần phải ghi chú, sự “phản bội” hay “xé rào” của các họa sĩ Ấn tượng nói trên chẳng phải đột nhiên. Đó là sự tiếp nối con đường của một vài họa sĩ "nổi loạn” trước đó, mà gần nhất là E. Manet (1832-1883)(3). Tiếp nữa, là sự ra đời và phát triển nhanh chóng của nhiếp ảnh, cũng như sự tiếp xúc với nghệ thuật nhật Bản (Nhiếp ảnh "đặt vấn đề” có còn cần thiết “vẽ đúng” nữa hay không; còn tranh khắc gỗ Nhật Bản mở ra các cảm nhận khác về khả năng và ý nghĩa của hội họa). Cuối cùng là bối cảnh tâm lý: Chủ nghĩa Thực chứng trong triết học (khởi đầu bởi Auguste Comte: 1798-1857) đề nghị cái nhìn phân tích khách quan, tôn vinh khoa học dẫn đến chủ nghĩa Tự nhiên trong văn học nghệ thuật được nhà văn E. Zola ra sức quảng bá có tác động mạnh tới giới văn nghệ sĩ. Và, sự phát triển tư bản chủ nghĩa lúc ấy đã đủ độ chin cho sự khẳng định của con người cá nhân trong nghệ thuật. Với con người này, các trật tự duy lý cổ điển vững chắc đề cao bổn phận đã trở thành chán ngấy-tính chất "vô chính phủ” sau này được xem là đặc điểm cơ bản của nghệ thuật hiện đại.
Nguyên Hưng
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)